!Chào mừng bạn đã ghé thăm Daibinhvip!. <-- !Mặt trời rủ bóng chiều tà. Chờ trăng đợi gió rượu ngà ngà.mê!Túi thơ sẵn lúc đề huề. Tiện tay cởi nút thả về núi sông. Cảnh thêm đẹp, tình thêm nồng. Thiên thai mấy độ hồng trần là đây. Non non nước nước mây mây. Mải vui quên cả tháng ngày đầy vơi-->

Tìm kiếm bài viết

<-- !DÒNG ĐỜI VẪN CHẢY, TẠI SAO TA LẠI KHÔNG TRÔI...? RUOITRAU20028@GMAIL.COM / XUANTRUONG20028@GMAIL.COM...!-->

Số lượt người truy cập

27 tháng 11, 2012

GIẬT MÌNH NHỚ TUỔI THƠ TÔI


Hôm qua, đọc bài “Đánh dậm” trên VietNamnet, giật mình nhớ tuổi thơ. Một quãng thời oằn lưng vác dậm sục oàm oạp trên những cánh đồng quê. Cái giỏ bé tẹo lủng lẳng bên hông và vài con tép cũng bé tẹo như cọng rau muống đồng. Thi thoảng được con cá rô bằng hai ngón tay cũng sướng rơn người. Cảm giác bữa cơm “tươi” đánh thức vị giác khiến thòm thèm ngay từ khi nhét chú cá rô vào giỏ và nghe nó giẫy đành đạch.
Nhỏ mà tham, cứ tưởng lặn ngụp chỗ nước sâu là lắm tép tôm, đâu biết rằng dậm chỉ đánh ven ao, mương cạn. Ngây ngô dại dột, ngâm mình dưới ao chỉ thòi mỗi cái đầu để thở. Ngoi lên miệng ao nước kéo tụt cả quần.
Một thằng bé tỏng teo kéo quần đùi chưa nổi, vẫn hùng hục vác dậm cao gấp đôi đầu người sục miệt mài dưới cái nóng như đun sôi nước đồng. Mẹ mắng. Nhưng vẫn ham. Hết học, quăng chiếc cặp là kéo… quần đùi, vác dậm chạy ra đồng. Mệt. Giản đơn thôi, vặt mấy tàu lá chuối phủ lên dậm, chui vào nằm thỏm trong đó và đánh một giấc.
Nhà không có trâu bò để nuôi. Đánh dậm xong, lại quẩy đôi sọt đi gắp phân trâu. Gặp phân khô thì gắp. Nhẹ nhàng, giản đơn. Nhưng đụng bãi phân tươi còn ướt thì phải xúc. Một cây xúc đan toe miệng kiểu như cái xẻng. Thằng bé con thành thạo chỉ một tay lùa roèn roẹt miệng cây xúc gọn gàng liếm đỡ từng bãi phân trâu thả vào sọt.
Cũng không phải mình nó. Cả làng dễ có đến gần chục đứa trẻ con kẽo kẹt gánh sọt đi gắp phân trâu như nó. Nhiều nhất là mỗi kỳ nghỉ hè, không đứa nào phải đi học. Vì thế có hôm phải đến chiều tối mới kiếm đầy hai sọt phân. Hai cái sọt tre kẽo kẹt phân trâu là thước đo cho độ cần mẫn và… tài năng của lũ trẻ. So với đám trong làng, nó hãnh diện vì hôm nào hai sọt tre cũng đầy ắp phân trâu.
Riêng khoản đánh đáo và bắn bi là dở, cực dở. Có hôm mất nửa sọt phân trâu cho lũ bạn vì trò đánh đáo. Còn trò bắn bi. Mấy cái viên bi đất nung sơn xanh đỏ tím vàng ấy có chi mà hút kỳ lạ. Bỏ ăn để bắn bi, thua sạch bèn chạy về lấy trộm hơn chục cái huân chương của ba ra đổi. Hồi ấy, ba đang là chuyên gia bộ đội Pa-Thét Lào. Huân huy chương nhiều nhất làng. Ba cất chúng trong một cái hộp gỗ bọc lớp vải nhung màu đỏ trong tủ thờ. Cạy tủ lấy trộm hơn mười cái, treo lủng lẳng trong lưng quần. Chạy ra ngõ, vén áo lên khoe. Cả lũ trẻ tròn xoe mắt thích thú đến ghen tị khi thấy lủng lẳng trong lưng quần nó hơn chục tấm huân chương đỏ chói. Mỗi tấm huân chương mười viên bi. Đổi một loáng hết sạch. Rồi lại lao vào bắn. Chừng hai buổi trưa lại thua sạch không còn viên nào.
Mấy hôm sau, một trận sưng đít, bầm tím lằn roi khi ba phát hiện. Cũng may, gom lại đủ khi lũ trẻ chưa vứt mất cái nào.
Có lẽ, đó là trận đòn đau nhất và... đáng nhớ nhất. Và có lẽ cũng từ đó, nhận ra sự thua kém của mình so với chúng bạn trong những trò đánh đáo bắn bi. Không bỏ được, nhưng ít đánh hơn, và lại miệt mài quảy đôi sọt tre, vác dậm ra đồng…
Ngày đó làng chưa về Hà Nội. Nó vẫn của Vĩnh Phú. Sau ngày thống nhất đất nước, cái sân bay Đa Phúc được lấy về để làm thành sân bay quốc tế mang tên Nội Bài. Làng nhập vào Hà Nội. Nét mặt ai cũng hớn hở. Mừng vui vì bỗng nhiên thằng bé đánh dậm gánh sọt gắp phân trâu như tôi bỗng chốc thành dân Thủ đô.
34 năm rồi, kể từ ngày làng "vào" Hà Nội, giờ về lại quê vẫn không khó để tìm… hình ảnh tôi. Dừng xe, vẫy tay gọi cậu bé vác dậm bên đồng. Vói tay cầm dậm múc oàm oạp vỡ văng mặt nước mà như thấy lại tuổi thơ mình.
Không phải làng quê không đổi thay. Nhà tầng đấy, đường nhựa đấy, ô tô đấy. Nhưng hình ảnh tuổi thơ tôi vẫn còn đấy. Vẫn những thằng bé con vác dậm. Chỉ không còn nữa những đôi sọt tre gắp phân trâu đen nhẻm, nhèm nhẹp.
Nhiều lúc cứ tự hỏi sao quê mình chậm giàu thế? Ngày đó, cú tưởng về Thủ đô sẽ tức khắc… đổi đời. Cái quãng thời 34 năm kia đủ để nhiều quốc gia quanh ta thành hổ hóa rồng.
Hôm trước, khi thấy trên ti vi khuôn mặt hớn hở của những lão nông vùng quê Hà Tây được nhập về thành công dân Hà Nội, lại giật mình nhớ tuổi thơ tôi. Nhớ quãng thời vác dậm gánh sọt gắp phân trâu và toét toe hí hửng khi nghe tin làng mình về… Hà Nội.
Càng có tuổi, chưa già nhưng đã hay giật mình trước những kí ức tuổi thơ. Lại thèm vác dậm, thèm cởi truồng lao tõm vào con sông tuổi thơ tôi- một làng ven Hà Nội.

( Coppy từ :http://truongduynhat.blogspot.com/ )

7 tháng 11, 2012

CHO TÔI XIN 1 VÉ, NGANG QUA TUỔI THƠ EM

Mai Thanh Hải - Mình có vài người bạn ở tít Sài Gòn quay cuồng xe - nắng; dưới miền Tây không bao giờ biết lạnh; ngoài Đà Nẵng - Nha Trang suốt năm nhào xuống tắm biển cho mát; trên Tây Nguyên hết gió hú rừng già, bây giờ chỉ còn lại lồng lộn gío đỏ, cuộn đất đỏ ba zan khét mũi...

Ngày xưa, mấy bạn mình vất vả làm ăn, có khi còn quên cả đón con khi chúng rời lớp.

Nhưng bây giờ, sau bao năm cày cuốc, cuộc sống dần dễ chịu - thảnh thơi, các bạn lại đâm ra mộng mơ, lãng đãng và cứ đọc thơ, ngắm sách để rồi muốn như hồi bé xưa.

Mùa đông đến, bạn mình cứ nhao nhao đặt vé kéo nhau ra chơi Hà Nội, có khi chỉ mấy ngày cuối tuần hoặc có khi tùy hứng, hôm trước ra hôm sau về, chỉ để thực hiện những "ước ao, khát khao" tuy nho nhỏ thôi, nhưng giá tiền đổi lại cho quãng đường thì hơi bị nhiều:

1/ Hít hà trà tàu nóng vỉa hè, đợi tiếng chuông đêm trên nóc nhà thờ lớn.

2/ Gõ giày, vơ vẩn ven Hồ Gươm buổi sáng, trong xào xạc lá rụng trên hè

3/ Nắm tay nhau co ro góc phố đêm đông, cảm nhận ghét cắt da thịt và thèm vòng ôm ấm...

Mình, cũng có khi phải chiều các bạn ấy, bởi như các bạn bảo "Rét Hà Nội là đặc sản của miền Bắc, chẳng đâu có!".

Thế nhưng, khi mình kể chuyện "đặc sản miền Bắc", trên những vùng núi cao, làm trẻ con tím tái, trâu bò chết gục, người lớn đóng cửa tránh rét... nhiều bạn mình lắc đầu: "Thương quá! Buồn quá! Tội quá!. Ở... xa nhỉ?" và lại lãng đãng với chiều, với tối, với ký ức đêm đông.


Đầu đông lạnh, Hà Nội đã ngợp lên những áo, những khăn, những mũ, những giày ủng đủ màu sắc - kiểu dáng trong 1 mùa thời trang Đông mới, trong nhịp sống đủ đầy của thành phố nhung lụa và ánh sáng.

Đã nghe tiếng thầm thì của đôi lứa, trong vần thơ Thi sĩ: ""Nếu không có mùa đông, lấy đâu gương mặt em trong chiếc khăn vàng nắng...", cứ đều đặn nức nở góc phố, khi gió Đông về.

Đã nghe thấy những hẹn hò của những người bạn, lên Đồng Văn chụp hình hoa Tam giác mạch, ngược Mộc Châu sờ hoa cải trắng, hướng Tây Bắc tìm hoa đào hoa ban, ngồi tàu chạy xe lên vùng cao Y Tý, ngắm nhà tường trình nằm giữa vòng cung cánh đồng nước, sau mùa gặt...
Lại mùa Đông, lại ấm áp với những hẹn hò của những người bạn, chả thân thích ruột rà, chả học cùng làm cùng, chả phải bè bạn bên cốc bia - chai rượu, chả nắm tay nhận thân quen (nhưng có việc hoạn nạn là toàn đi... công tác)... nhưng đã thân thuộc - gần gũi đến vô cùng: "Tối nay sang bốc hàng/ Chiều mai đi đóng áo/ Hôm nay mua đủ ủng rồi"...

Lại mùa Đông, lại dày lên những kỷ niệm trên chặng đường góp những chuyến hàng nào áo ấm, nào mũ xinh, nào ủng cao, nào chăn dày... cho cái Chương trình be bé - bình dị, được mang tên "Áo ấm Biên cương", hướng lên những xã bản vùng biên ải, cheo leo canh giữ cột mốc Biên phòng và những chuyến đi tranh thủ cuối tuần, lên tận nơi đang khó khăn thiếu thốn ấy, trao tận tay cô - trò - bộ đội, rồi lại tất tả luồn rừng, vượt núi về thị xã, tựa vao nhau ngủ gục trên xe khách xuôi Hà Nội, sáng hôm sau đi làm, nghìn nghịt người xe đô thị rồi, cứ tưởng vẫn bập bùng biên giới sương mây...


Mùa đông năm nay rất lạnh, ngang qua khu mua sắm kề bên Hiệu sách lấp lánh câu chữ trong tủ kính, chợt thấy cuốn sách cũ với cái tít quen thuộc trên kệ cuối, chợt bật cười và ước: "Đừng rao giảng, nói nhiều nữa. Cho chúng mình xin một ít, để chuyển thành áo ấm, đắp ngang tuổi thơ những đứa trẻ thơ chưa đầy chục tuổi, đang rét đầy trên từng mỏm đá biên cương!"...

Mọi người tìm hiểu công việc của tụi mình đã - đang làm và cùng đồng hành, nhé!
- https://www.facebook.com/AoAmBienCuong
http://aoambiencuong.com
----------------------------------------------------------
MÙA RÉT BIÊN GIỚI VÀ CÔNG TÁC CHUẨN BỊ CHUYẾN HÀNG LẦN 2/2012

3 tháng 11, 2012

Thô bỉ hủ bại bạc bẽo đê tiện


Nhìều chuyện đáng xấu hổ
     Trong một họ, tôn trưởng thời lèm nhèm, con em thời vô lại;
     trai ăn trộm đánh bạc gái làm biếng chửa hoang;
     nhà thờ tổ có kẻ giỡ ngói bán, ngày giỗ tổ uống rượu để rức  nhau (1);


     nhà bác cưới con gái nhà chú không được tiền thời sinh sự để trở hôn, người này chết vợ con người kia có sự bất bình thời sinh sự để ngăn cản việc tống táng
      Ấy là những sự xấu hổ của một dòng họ.
     Trong một làng, đàn anh chỉ ăn bẫm, đàn em chỉ kiện nhau;
      đình điếm tồi tàn, đường bến rác uế, tiếng chửi mất mạ ở ngoài đồng, tiếng chửi mất gà ở trong xóm;
     nhà nào có tang ma thời quan viên hạch sách sự ăn uống, nhà nào có thất hoả (2) thời hàng xóm láng giềng đến hôi đồ 
       Ấy là những sự xấu hổ của một làng.
     Trong giới thực nghiệp (3), người có tư bản mà không có chí khí, lấy giàu đủ hơn người khác làm mãn nguyện mà không mở rộng được công việc;
      hiệu mở rồi lại đóng, hội họp rồi lại tan;
      việc canh nông không khảo xét mà chỉ mong nhờ trời làm được mùa, việc công nghệ không cầu tinh mà chỉ lấy bán đắt làm lãi 
       Ấy là những sự xấu hổ của giới thực nghiệp.
      Sự đáng xấu hổ thì nhiều mà người biết xấu hổ thời ít.

(1) nhiếc móc nhau
(2) bị cháy
(3) chỉ chung các nghề làm ăn kiếm sống
                                                                                    Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu
                                                                            Sự xấu hổ, Hữu thanh, 1921        

Vục đầu ăn uống 
trách sao dân chẳng hèn nước chẳng nhược?
    Người thi đỗ, người được bổ làm quan, người được phẩm hàmđều phải khao vọng. Nhà vua cũng đã đặt lệ giản tiện cho người ta dễ theo. Đại để như đỗ tú tài thì khao một con gà một đĩa xôi và ba quan tiền, đỗ cử nhân thì khao một con lợn một mâm xôi và năm quan tiền.
     Nhưng ngặt vì tục dân đã quen, chiếu lệ ra mà làm thì họ cũng phải chịu, nhưng tình ý không thoả hiệp thì họ sinh ra lắm sự ngăn trở.
     Họ có câu rằng “Phép vua thua lệ làng “, thực là một lời nói đáng khinh bỉ.
     Lại có một câu nữa là câu “vô vọng bất thành quan “(1). Cứ như câu ấy thì ra có xôi thịt cho họ ăn thì họ tôn kính, kém xôi thịt thì họ coi thường. Vậy thì họ chỉ vì miếng ăn mà đổi lòng khinh trọng, sao đê tiện hèn hạ làm vậy?
     Lại ngán nỗi cho hạng kỳ mục(2), động ai có việc gì mời mọc đến ăn uống no say rồi thì giở ra cách chơi bời, thuốc phiện hút khói um nhà, bài bạc đùa cười rầm rĩ, ấy thế là thoả thuê, ấy thế là hể hả. Giá đám nào kém thì đã thấy lắm kẻ hậm hà hậm hực, tiếng nọ tiếng kia, làm cho người ta khó chịu.
 Than ôi! Ngoài chốn hương thôn không còn biết trời đất là đâu, ngoài sự ăn uống không còn có sự nghiệp gì, như thế thì trách làm sao mà dân chẳng hèn, nước chẳng nhược?

(1)không khao vọng không phải là quan
(2) kỳ ở đây là già cả. Các từ điển cũ ghi kỳ mục là những người già cả “tai mắt” trong làng
                                        
 Phan Kế Bính
 Việt Nam phong tục 1915
Chưa làm quan đã nghĩ tới 
trộm cướp của công để hưởng lạc
   Có những người nộp một quan tiền thuế mà tựa hồ bị cắt mất một miếng thịt, rên siết than vãn, thế mà đến sòng bạc thì cầm nhà bán cửa không tiếc.
    Có những hạng giàu có phong lưu, ăn mày chầu chực trước nhà không xin nổi một đồng điếu, người làng thiếu thuế không vay lợi được một quan, thế mà đến chỗ ăn chơi thì ngàn vàng mua một trận cười, trong cơn sát phạt, trăm vạn chỉ đặt một tiếng. Hạng người này nhiều lắm, không xe nào chở hết...
   Cũng có nhiều người mới học kha khá đã truy hoan, ngày nào cũng mài miệt trong cuộc đỏ đen, thường lui tới các chủ nợ hứa với người ta rằng “Đợi tôi dạ một tiếng trước cổng trường (1) thì mọi việc sẽ đâu vào đấy”.
     Rắp tâm hành động như thế, rõ ràng là quân trộm cướp của công chứ còn gì?

(1)   Tức là thi đỗ, rồi ra làm quan, tha hồ kiếm chác

 Nguyễn Trường Tộ
 Tám việc cần làm gấp, 1867

Tham giàu cho mau nên sinh cờ gian bạc lận
     Cũng bởi người mình tục quấy (1) nhiều, cho nên mới sinh bài bạc nhiều. Bài bạc ham nghĩa chi? Nghĩa là tham cho mau có tiền, đặng khoe khoang nhà cao cửa lớn, đặng cho khỏi bị người giàu có khinh khi bỉ bác. Tại bởi quấy, ít thương nhau cho nên sinh ra tranh đua về lý tài (2). Lý tài gấp thì có món chi mau hơn cờ gian bạc lận? Rõ là tục quấy làm cho người trở lòng tham lam.

(1)   Tục quấy có nghĩa thói quen xấu. Theo Đại nam quốc âm tự vị, quấy có nghĩa rất rộng chỉ sai lầm giả dối không nên không phải   
(2)   cốt sao kiếm lợi
 Lương Dũ Thúc,
Nông cổ mín đàm1902


Những mộng tưởng hão
   Nghề cờ bạc hại như thế, mà sao lại lắm người đam mê? Đó chẳng qua mấy bác ăn không ngồi rồi, không nghĩ cách xa xôi, trước còn  cho là một cuộc tiêu khiển, rồi cay vào thành ra gỡ gạc. Các tay đại phú, các bậc hào thương, thường cũng có kẻ đam mê mà bỏ cả công việc buôn bán. Hạng ấy thì lại mộng tưởng những sự may rủi lớn lao, tưởng những sự gỡ một ngày còn hơn buôn cả tháng.
  Người ta không biết trọng cái thực lực mà muốn trông cậy về vận may thì chí khí cũng đã kém rồi, huống chi là cái may cũng không mấy khi được gặp.     
                                                                                                                                                                                              Phan Kế Bính                                                                                                
                                                                                              Việt Nam phong tục,1915

Ăn uống chơi bời bên cạnh
nỗi đau của người khác 
    Cái tục tang ma ở ta, hiếu chủ (1) đã có nhiều cách phiền phí (2), đến như lệ làng lại càng phiền nhiễu nữa.
     Việc tử biệt là cái cảnh rất thương xót, mà sự trợ tang thì là một nghĩa vụ của xã hội.
     Đã gọi là nghĩa vụ thì khi người ta đau đớn có thể giúp được gì thì giúp chứ ai còn tưởng gì đến sự ăn uống. Mà hiếu chủ đang lúc buồn bã âu sầu, còn bụng nào mà nghĩ đến việc thù tiếp. Vậy mà ép cho người ta phải cỗ bàn khoản đãi thì cái nghĩa vụ cứu giúp nhau ở đâu?
      Trừ người cùng kiết (3) quá, còn như người có thể lo được hoặc có thể vay mượn được, không mấy ai chịu kém cái sĩ diện.
      Vậy tiếng là tuỳ tiện (4), mà cũng là buộc một cái nợ miệng cho người.
       Đến như các làng, dẫu ai đau đớn khổ sở thế nào mặc lòng, hễ có ăn thì còn để cho người ta giữ hiếu nghĩa, không có ăn thì hiếu nghĩa của người ta cũng bỏ.
        Tục ấy là một tục rất thô bỉ, rất hủ bại, rất bạc bẽo, không có tục nào xấu xa đê tiện bằng!

(1) người đứng ra chịu tang
(2) bận rộn tốn kém
(3) nghèo túng
(4) dễ dãi sao cũng được
 Phan Kế Bính
 Việt Nam phong tục, 1915
Lười nhác không chịu vận động,
không biết thế nào là  thể thao thể dục
      Người nước ta quý trọng các ông thầy đồ lưng dài tốn áo ăn no lại nằm đã thành ra một cái bệnh gần chết không có thuốc chữa. Đến lúc sóng Âu châu ập vào, người ta coi chừng đã tỉnh dậy, nhưng mà công phu về đường thể dục còn chưa nghiên cứu đến nơi.
      Cái căn tính lười nhác đã quen nết lâu ngày, lại nhiều điều thói đãng tính dàm dê (1) cho hại đến sinh mệnh, người ta lấy thế làm sự thường, không lo đường cải cách nào là công khoá (2) về đường thể thao, nào là lợi ích về cách vận động.
      Trong một ngày có 12 giờ, nửa ngồi chết trước cuộc tài bàn (3), nửa nằm chết bên đèn thuốc phiện.
      Vận động đã không có công phu thì huyết mạch lấy gì làm lưu thông; huyết mạch đình trệ thì thân thể phải hèn ốm cho rồi, dân mới hoá ra dân nô lệ, nước mới hoá ra nước bạc nhược.

(1)   Thói đãng là cách sống buông thả; riêng dàm dê là gì, chúng tôi chưa tra cứu được, không rõ có phải là dâm dê hay không (?).
(2)   Những công việc khi vào học phải làm là công, những thứ  học trò phải học là khoá, gọi chung là công khoá
(3)   Một loại tổ tôm, nhưng chỉ có ba người, và đánh không có chừng mực nào cả (Theo cách giải thích của Phan Kế Bính trong Việt Nam phong tục)

 Phan Bội Châu
                                                                                Bài diễn thuyết tại Trường quốc học Huế,1926

Sự xa xỉ mang hại lớn
      Đua nhau may những hàng đẹp mặc những hàng mới, chửa được bao lâu lại đổi mặc hàng khác, ấy là cái thói đua mới chuộng lạ của người dân ta. Có sự xa xỉ bởi có sức trợ chưởng(1) từ bên ngoài.
     Những người thượng lưu không vụ lấy tài đức hơn người, chỉ cốt chăm chăm về đường hư sức (2), bề ngoài dễ khiến người đời xu thượng (3).
       Lòng người đã khuynh hướng về sự xa xỉ, thời tất không thích dùng những hoá vật trong nước mà lại coi nhưng đồ ngoại quốc là lạ là quý hơn, ấy lại là một sự thiệt hại cho nước mình nữa.

(1) bàn tay giúp sức
(2) vẽ vời giả tạo
(3) mải chạy theo
 Trịnh Đình Rư
                                                                             Phép thực dụng kinh tế trong một nhàHữu thanh, 1921


Mê tín thủ cựu dốt nát
     Đâu đâu cũng thấy những ng­ười nông dân mê tín thủ cựu và dốt nát.   Thư­ờng xuyên có sự lãng phí sức lực. Một thói quen lâu ngày đã làm họ thích nghi với cuộc sống khốn khổ.
     Khi có một ít tiền, họ liền tiêu bừa bãi trong những hội hè. Nếu mùa màng thu hoạch tốt, ngày tết đến họ đốt pháo tha hồ, họ tổ chức những hội hè kéo dài đến mười lăm hoặc hai mư­ơi ngày. Sự thiếu lo xa hầu như­ không có giới hạn.
   Ruộng đất khai thác chỉ cho một năng suất thấp, khiến sự nghèo đói của ngư­ời làm ruộng lại càng trầm trọng thêm.
   Vì thế ngư­ời nông dân thư­ờng xoay sở bằng mọi cách. Cách xoay sở tốn ít công sức nhất là cờ bạc.
  Trong xã hội Việt Nam, mọi người đàn ông, đàn bà, trẻ con đều đánh bạc.
  Tôi đã đếm đ­ược ở một hội làng tới 22 lối cờ bạc, và 150 chiếu chơi xóc đĩa. Các tội ác, các vụ trộm cư­ớp, những hành động phạm pháp th­ường chỉ là do cờ bạc mà ra.
  Ng­ười ta đánh bạc với hy vọng làm cho hoàn cảnh của mình khấm khá hơn. Đôi  khi điều đó dẫn đến những hậu quả khôn lường.

Nguyễn Văn Huyên
 Vấn đề nông dân Việt Nam ở Bắc Kỳ, 1939

Từ lệ hương ẩm tới óc xôi thịt
     Trong các tục lệ của xã hội Việt Nam, lệ hương ẩm(1) là một lệ phổ thông hơn cả. Người ta thường tranh nhau ngôi thứ để đạt quyền lợi. Vì góc chiếu trên nơi đình trung mà nhiều người tranh giành thưa kiện nhau đến mất nghiệp; vì một miếng xôi phần thừa huệ thánh  sau khi tế lễ tại đình  mà nhiều người thành ra thù địch nhau.
     Cái khiếu xã hội (2) của nhiều người không tìm được lối thoát khác để thoát ra, nên đã lạc hướng mà biến thành óc xôi thịt.

(1)  lệ ăn uống ở các làng xã
 (2)  ý thức về vị trí xã hội nơi mỗi cá nhân 

                                                                                                                                          Lương Đức Thiệp
                                                                                                                            Xã hội Việt nam 1944

 Càng nghèo càng thích chạy theo những trò nhảm nhí
     Thử nhìn vào đám dân quê dư dật xem họ có việc gì, ta thấy ngoài công cuộc làm ăn, họ chỉ còn quân bài lá bạc thuốc phiện hay cô đầu.
     Đám dân nghèo cũng vậy, không phải là họ không biết cờ bạc, ngược lại càng nghèo họ càng lăn vào cuộc đỏ đen, hòng kiếm thêm ít tiền mà mồ hôi nước mắt không đủ mang lại cho họ.
     Thành ra, từ trên xuống dưới, giàu cũng như nghèo, không to thì nhỏ, cờ bạc đã trở nên một tập quán ăn sâu vào đầu óc dân chúng, đó thực là một mối tai ương cho dân tộc ta vậy.
     Ngoài ra nếu không cờ bạc thì người ta lại đua nhau đồng bóng, lễ bái nhảm nhí, từ đó sinh ra biết bao nhiêu mối tệ đoan khác.
 Đỗ Đức Dục
 Vấn đề tổ chức những thì giờ nhàn rỗi của người
 bình dân ở xứ taThanh nghị, 1945

2 tháng 11, 2012

5 đức tính vĩ đại của con chó

Con người tự cho mình là động vật cao cấp nhất, sự ngạo mạn đó thật đáng xấu hổ. Bay không được như chim, chạy không bằng ngựa, bơi lặn không bằng cá, leo trèo không bằng khỉ …, nói chung so với bất cứ con gì thì con người cũng có mặt thua kém, không nhiều thì ít, không chỉ về mặt sinh học mà cả về tư cách. Độc ác, dối trá, tham lam, phản trắc, lừa đảo, đạo đức giả … là những “phẩm giá” chỉ có riêng ở loài người, không có ở loài vật. Con người tự cho mình có trí tuệ không có con vật nào sánh kịp ư ? Là tự mình đề cao mình đấy thôi. Dùng trí tuệ để suốt ngày đi “chinh phục thiên nhiên”, suốt ngày đi “cải tạo xã hội”, suốt ngày đi phá rừng, suốt ngày đi chế tạo bom đạn chế tạo chất độc hủy diệt nhau và hủy diệt môi trường, suốt ngày đi làm thủy điện gây lũ lụt gây hạn hán gây động đất, suốt ngày kết bè kết nhóm bày mưu tính kế hại nhau … Trang Tử, Lão Tử chẳng phải đã nói phải “diệt thánh khí trí” thì thiên hạ mới thái bình đó sao ?

Sự tồn tại của con người trong thiên nhiên có hại nhiều hơn là có lợi. Sinh ra con người có lẽ là sự sai lầm “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” của tạo hóa. Cứ cái đà này, nếu con người không biết hoàn lương không biết phục thiện thì tạo hóa buộc sẽ phải sửa sai để “khắc phục hậu quả”, cho nên trước sau gì loài người cũng sẽ bị tuyệt diệt. Đó là điều tương đối chắc chắn.

Bởi vậy, để hoàn lương tự cứu mình, con người nên khiêm tốn học hỏi loài vật, trước hết là học hỏi con chó.

Con chó có những đức tính vĩ đại mà con người cần học tập suốt đời :

1. Không tham nhũng.
Con chó mới thật sự vô sản. Chỉ ăn đủ no, không có của dư của để, không “hy sinh đời bố củng cố đời con”, không cần phải kê khai tài sản. Tuy thỉnh thoảng có ăn vụng và dành ăn với nhau, nhưng đó là do quá đói nên phải “điều tiết” một chút để sinh tồn, công khai minh bạch, chẳng thể gọi là xấu. Loài linh cẩu tuy có đi ăn cắp thức ăn, nhưng chỉ ăn cắp thức ăn của sư tử, hổ báo, phải đem tính mạng ra trả giá, sự ăn cắp đó rất có khí phách. Đương nhiên con chó cũng không đặc quyền đặc lợi, không nhận hối lộ, không lợi dụng chức vụ quyền hạn để cố ý làm trái.

2-Không biết chữ.
Chó chỉ đọc bằng mũi, cũng đủ quán thông thiên địa, không cần phải thông qua những ký hiệu chữ nghĩa vừa hạn hẹp vừa lằng nhằng. Lục tổ Huệ Năng nói : “Lý nhiệm màu của chư Phật chẳng quan hệ với văn tự”. Không biết chữ nên không bẽ cong ngòi bút viết sai sự thật, không làm báo lá cải giật gân, không bịa ra chuyện bố chồng dính với nàng dâu, không mô tả ngực mô tả đùi các cô gái để câu khách, không dùng văn tự để thượng tôn hạ đạp. Nhân loại có hai nhân vật thuộc hàng vĩ đại nhất, đó là Thành Cát Tư Hãn và Lục tổ Huệ Năng, cả hai đều không biết chữ.

3-Không biết nói.
 Chó không biết nói nên không bao giờ nói dối, không bao giờ nói bậy, không bao giờ nói bịa, không nịnh trên nạt dưới, không mắc bệnh cán bộ 4D “nói dài, nói dai, nói dại, nói dở”. Đức Phật bảo “Ta 49 năm chưa từng nói một lời nào”. Chưa nói đương nhiên rất tốt, không biết nói càng tốt hơn.

4-Trung thành tuyệt đối.
 Trung thành là đức tính vĩ đại của bậc chính nhân quân tử, không phải là đức tính phổ biến của con người. Đối với con chó, trung thành là thuộc tính thường hằng, không có ngoại lệ, là “nguyên tắc bất di bất dịch”. Không có bất cứ con chó nào phản chủ. Nhưng nên nhớ : con chó chỉ coi người gần gũi chăm sóc nó là chủ. Bỏ tiền ra mua nó về để sở hữu nó chưa chắc được nó coi là chủ. Những kẻ trưởng giả học làm sang, mua chó “xịn” về rồi giao cho “người ở” chăm nom, con chó chắc chắn sẽ coi cái “người ở” đó là chủ chứ không phải kẻ trưởng giả kia. Tất nhiên có những anh chủ chị chủ không đủ tư cách, không đáng được trung thành, nhưng con chó vốn vị tha bao dung, sống theo nguyên tắc “ta thà bị người phụ chứ quyết không phụ người”. Vả lại, có lẽ con chó được tạo hóa “cử” đến để giáo hóa con người về lòng trung thành, cho nên nó giữ đúng nguyên tắc để làm gương, dù nhiều khi bị đối xử tàn tệ. Chẳng phải Chúa cũng đã từng chịu khổ đóng đinh trên cây thập tự để chuộc tội lỗi cho con người đó sao !

5-Tự nhiên thành Phật.
 Con người muốn thành Phật thì phải đi tu, mà như Phật dạy : càng cầu thành Phật càng xa Phật. Phải phá hết chấp, phải thoát hết mọi thứ u mê thiện ác trí thức trí tuệ, phải vô sở cầu vô sở đắc vô sở trụ… mới thành Phật. Còn con chó, tự tánh là không chấp nên không cần phá chấp, tự tánh không u mê thiện ác trí thức trí tuệ, tự tánh không cầu không muốn không giữ, tự tánh chỉ có Như Lai, nên tự nhiên thành Phật, không cần tụng kinh niệm Phật, không cần cạo đầu đi tu.

Tôi phải mở ngoặc lưu ý một chút để các vị đức cao vọng trọng đừng kết tội tôi báng bổ Phật pháp : Phật nói tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, trong chúng sanh tất nhiên có con chó. Lục tổ lại nói “tự tánh giác ngộ, chúng sanh là Phật; tự tánh ngu mê, Phật là chúng sanh”. Các vị đức cao vọng trọng cần nhớ rằng niết bàn là nơi dành cho mọi chúng sanh, là tự tánh của mọi chúng sanh, trong đó có con chó, không phải là chốn đặc quyền đặc lợi ăn trên ngồi trốc của con người./.

NGƯỜI THEO DÕI